Lịch sử Nhà Liêu

Quật khởi và kiến quốc

"Kị xạ đồ" của Lý Tán Hoa (Gia Luật Bội).

Người Khiết Đan vốn là hậu duệ của người Tiên Ti, xuất hiện từ thời Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế, đương thời tụ cư ở khu vực thượng du Liêu Thủy, tự xưng là hậu duệ của thanh ngưu bạch mã.[5]:378[6] Năm 648 thời Đường Thái Tông, triều Đường đặt ra Tùng Mạc đô đốc phủ ở vùng đất người Khiết Đan cư trú, tù trưởng nhậm chức đô đốc đồng thời được ban cho họ Lý, đến năm 660 thời Đường Cao Tông thì người Khiết Đan nổi dậy tự lập, thoát ly quan hệ với triều Đường.[4]:4 Gia Luật A Bảo Cơ sinh năm 872, là con trai của tù trưởng Điệt Lạt bộ. Đương thời, Điệt Lạt là bộ lạc lớn nhất và mạnh nhất trong số tám bộ lạc Khiết Đan liên minh; tuy nhiên, ngôi vị đại hãn nằm trong tay Diêu Liễn thị. Năm 901, A Bảo Cơ được hội đồng bộ lạc bầu làm tù trưởng Điệt Lạt bộ. Năm 903, A Bảo Cơ trở thành lãnh đạo quân sự của toàn thể người Khiết Đan, chỉ dưới quyền Đại hãn. Năm 905, Gia Luật A Bảo Cơ kết nghĩa huynh đệ với Tấn vương Lý Khắc Dụng- một trong các quân phiệt chính thời vãn Đường. Gia Luật A Bảo Cơ sau đó thay thế Ngân Đức Cận khả hãn, kết thúc chín đời Diêu Liễn thị nắm giữ ngôi vị khả hãn, trở thành khả hãn vào năm 907. Cùng năm A Bảo Cơ trở thành đại hãn, tại Trung Nguyên, quân phiệt Chu Ôn soán Đường xưng đế, mở ra thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc đầy biến động. Gia Luật A Bảo Cơ trước sau trấn áp các quý tộc Khiết Đan làm loạn, chinh phục các bộ lạc Hề, Thất Vi, Hiệt Kiết Tư, Trở Bốc; đồng thời khống chế khu sản xuất muối ở Mông Cổ; trên phương diện kinh tế và quân sự đều rất cường thịnh.[7]:44

Bản đồ giai đoạn nhà Hậu Lương (907-923)
  Tấn (晉), tiền thân của nhà Hậu Đường

Trong phần lớn lịch sử Trung Quốc, ngôi vị hoàng đế được truyền theo chế độ thế tập; tức được truyền từ cha cho con trai cả khi người cha qua đời. Trong khi đó, mặc dù người Khiết Đan cũng kế vị dựa trên quan hệ gia đình, song yếu tố quan trọng là khả năng của người đó, toàn bộ các huynh đệ và cháu trai cũng như con trai của vị thủ lĩnh trước đều có thể kế vị hợp lệ. Những thủ lĩnh Khiết Đan chắc rằng sẽ bàn giao quyền lực cho một người họ nội sau nhiệm kỳ ba năm.[8] Từ năm 907 đến năm 910 quyền lực của A Bảo Cơ không bị thách thức. Tuy nhiên, sau năm 910, khi A Bảo Cơ bỏ qua truyền thống Khiết Đan là cần giao lại ngôi vị đại hãn cho một thành viên khác trong gia tộc, quyền cai trị của ông bị thách thức trực tiếp, Trong cả năm 912 và 913, các thành viên trong gia tộc của A Bảo Cơ, bao gồm hầu hết các em trai của ông, cố gắng tiến hành nổi dậy vũ trang. Sau khi cuộc nổi dậy đầu tiên bị phát giác và đánh bại, A Bảo Cơ tha thứ cho những người chủ mưu. Sau lần thứ hai, chỉ có các em trai của ông được tha, những người chủ mưu khác bị xử tử. Các em của ông tiếp tục âm mưu làm phản vào các năm 917 và 918, song đều dễ dàng bị đè bẹp.[9] Ngày 17 tháng 3 năm 916, Gia Luật A Bảo Cơ kiến lập Khiết Đan Quốc, tức Liêu Thái Tổ. A Bảo Cơ tiến hành một số thay đổi để khiến quốc gia Khiết Đan tiến gần hơn đến mô hình quản lý nhà nước của các triều đại Trung Hoa. Ông xưng đế và đặt ra niên hiệu, xác định con trưởng là Gia Luật Bội làm người kế vị, ủy quyền xây dựng miếu thờ Khổng Tử. Hai năm sau, Da Luật A Bảo Cơ thành lập thủ đô Thượng Kinh, dựa theo mô hình thủ đô Trung Hoa.[10]

Liêu Thái Tổ cưỡng đoạt nhân khẩu ở Trung Nguyên, thu nạp các lưu dân Hà Bắc chạy chiến loạn, cho xây thành theo phong cách Trung Nguyên để an trí họ. Đồng thời, Liêu Thái Tổ cũng bổ nhiệm sử dụng những người Hán như Hàn Diên Huy, Hàn Trí Cổ, Khang Mặc KýLư Văn Tiến. Năm 918, Liêu Thái Tổ cho xây hoàng đô phủ Lâm Hoàng, nay thuộc Ba Lâm Tả của Nội Mông. Hai năm sau, Liêu Thái Tổ lại sáng kiến ra đại tự Khiết Đan đồng thời thúc đẩy việc sử dụng.[4]:5 Trên phương diện quân sự, Liêu Thái Tổ vào năm 925 đông chinh Bột Hải, trên lãnh thổ cũ của nước này lập ra nước Đông Đan để thống trị dân Bột Hải, lập Hoàng thái tử Gia Luật Bội làm Đông Đan hoàng vương. Liêu Thái Tổ luôn có ý đồ nam hạ Trung Nguyên,[11]

Liêu Thái Tông kế vị

Năm 916, Gia Luật A Bảo Cơ chính thức chỉ định Gia Luật Bội làm người kế vị.[12] Kế vị theo hình thức thế tập là tiêu chuẩn có từ lâu trong văn hóa Hán, song không được người Khiết Đan chấp thuận, gây ra xích mích giữa mong muốn của Gia Luật A Bảo Cơ và sự tin tưởng của thượng tầng Khiết Đan, trong đó có Hoàng hậu Thuật Luật Bình. Gia Luật A Bảo Cơ cảm nhận được khả năng quá trình kế vị có thể rơi vào khó khăn, do vậy ông buộc các thủ lĩnh Khiết Đan phải thề trung thành với Gia Luật Bội sau khi ông bổ nhiệm người con này là người kế vị. Đối với người Khiết Đan, điều này được xem là một động thái mang tính cấp tiến.[13] Xích mích giữa kế vị theo thế tập hay chọn ứng cử viên mạnh nhất dẫn đến các cuộc khủng hoảng kế vị lặp đi lặp lại trong hoàng tộc Gia Luật, lần đầu tiên diễn ra sau cái chết đột ngột và bất ngờ của Gia Luật A Bảo Cơ vào năm 926.[14]

Gia Luật Bội khi đó 26 tuổi, ông là một nhà thông thái, do vậy mang nhiều nét của giới quý tộc Trung Hoa; ông là một chuyên gia về âm nhạc, y học, bói toán, hội họa và văn chương (bằng cả tiếng Hán và Khiết Đan).[15] Ông cũng là một quân nhân có đầy đủ tài năng, lãnh đạo binh sĩ Khiết Đan chiến đấu trong chiến dịch tiêu diệt Bột Hải. Sau khi chiến dịch kết thúc với thắng lợi của Liêu vào năm 926, Gia Luật A Bảo Cơ ban cho Gia Luật Bội quyền quản lý lãnh thổ vừa chinh phục được, lãnh thổ này trở thành nước Đông Đan, còn Gia Luật Bội trở thành Đông Đan hoàng vương.[16]

Hoàng hậu Thuật Luật Bình là một nhân vật mạnh mẽ khác thường. Thuật Luật Bình từng chỉ huy một đội quân gồm 20 vạn kị binh làm nhiệm vụ duy trì trật tự trong lúc Gia Luật A Bảo Cơ tiến hành chiến dịch quân sự ở bên ngoài. Bà cũng từng tự mình lãnh đạo chiến dịch quân sự. Sau khi phu quân qua đời, Hoàng hậu từ chối tuẫn táng cùng ông theo phong tục truyền thống của Khiết Đan, và chọn cách chặt đứt bàn tay phải để chôn theo ông.[17] Thuật Luật Bình sau đó nắm giữ quyền lực về quân sự và dân sự, và có thể giám sát việc kế vị hoàng vị theo điều kiện của bà.[15] Việc Hoàng hậu từ chối tử tử để tuẫn táng cùng phu quân khiến phong tục lâu đời này chấm dứt.[18]

Do Hoàng vương Gia Luật Bội mang cả giá trị Hán và Khiết Đan, Hoàng hậu Thuật Luật Bình phản đối Da Luật Bội trở thành hoàng đế. Bà tin rằng sự cởi mở của Gia Luật Bội với văn hóa Hán có thể làm suy giảm khả năng lãnh đạo của ông trong vai trò là một người Khiết Đan, thay vào đó bà ủng hộ người con trai thứ hai của Gia Luật A Bảo Cơ, là người mang tính truyền thống hơn, đó là Gia Luật Đức Quang, sự ủng hộ dành cho Gia Luật Đức Quang còn đến từ giới quý tộc Khiết Đan. Nhận thấy rằng mình không thể kế vị hoàng vị, và sẽ nguy hiểm nếu cố gắng tiến hành, Gia Luật Bội đành vận động cho em trai kế vị, và đến cuối năm 927, ông chính thức tuyên bố với Thuật Luật Bình rằng Gia Luật Đức Quang có khả năng hơn, về mặt chức năng thì kết thúc khả năng ông có thể thách thức việc Gia Luật Đức Quang đăng cơ.[19]

Mặc dù Gia Luật Bội tự nguyện từ bỏ quyền kế vị hoàng vị, song Hoàng đế Gia Luật Đức Quang vẫn xem anh trai là một mối đe dọa. Gia Luật Bội vẫn giữ chức Đông Đan hoàng vương, và trở lại Đông Đan sau khi từ bỏ quyền kế vị hoàng vị. Để ngăn cản Gia Luật Bội tạo lập quyền lực riêng tại Đông Đan, Gia Luật Đức Quang hạ lệnh rằng thủ đô của Đông Đan và toàn bộ dân trong thành phải dời đến khu vực nay là Liêu Dương.[20] Bản thân Hoàng vương Gia Luật Bội bị đặt dưới sự giám sát của Hoàng đế.[13] Năm 930, Hoàng vương Gia Luật Bội chạy sang Hậu Đường, tại đây ông trở thành một khách quý của Hậu Đường Minh Tông Lý Tự Nguyên, thậm chí còn được vị Hoàng đế này ban cho họ Lý của hoàng tộc.[13]

Nam hạ Trung Nguyên

Sau khi Hậu Đường Minh Tông qua đời vào năm 933, triều Hậu Đường bắt đầu sụp đổ vì cuộc khủng hoảng kế vị nội bộ. Con trai và người kế thừa của Hậu Đường Minh Tông là Lý Tùng Hậu chỉ trị vì được ba tháng rồi bị sát hại trong cuộc chính biến vào năm 934, thủ lĩnh chính biến là Lý Tự Nguyên trở thành hoàng đế, tức Hậu Đường Mạt Đế. Gia Luật Bội là khách quý của triều đình Hậu Đường, ông viết thư cho Gia Luật Đức Quang, khuyên em trai xâm lược Hậu Đường, song Gia Luật Đức Quang không làm theo. Năm 936, Hà Đông tiết độ sứ Thạch Kính Đường của Hậu Đường tự xưng là "nhi hoàng đế", cắt nhượng Yên Vân thập lục châu làm điều kiện, thỉnh cầu Liêu Thái Tông chi viện tấn công Hậu Đường. Gia Luật Đức Quang tự thân suất 5 vạn kỵ binh, đánh bại quân Hậu Đường ở Tấn Dương, Lạc Dương; cuối cùng hiệp trợ Thạch Kính Đường đánh diệt Hậu Đường, Thạch Kính Đường thành lập nhà Hậu Tấn. Để cai trị người Hán ở Yên Vân thập lục châu, Liêu Thái Tông lựa chọn phương thức "nhân tục nhi trị" (theo tập quán mà cai trị), tiến hành phân trị đối với người Khiết Đan và người Hán, thi hành lưỡng viện chế Nam diện quan và Bắc diện quan. Đồng thời, Liêu Thái Tông cũng đổi U Châu thành Nam Kinh, Vân Châu thành Tây Kinh.[4]:8 Yên Vân thập lục châu là lãnh thổ trải dài từ Đại Đồng (Sơn Tây) hiện nay đến bờ biển của Bột Hải ở phía đông Bắc Kinh hiện nay.[21] Do Yên Vân thập lục châu có nhiều cửa ải và thành chiến lược, người Khiết Đan nay có thể tiếp cận vùng bình nguyên ở Hoa Bắc.[22]

Mối quan hệ giữa Liêu và Hậu Tấn trở nên căng thẳng sau khi Thạch Kính Đường qua đời vào năm 942 và Thạch Trọng Quý kế vị, Thạch Trọng Quý chỉ thượng biểu xưng là "tôn" (cháu) thay vì xưng thần với Liêu Thái Tông. Quanh Thạch Trọng Quý là các quân sư chống Khiết Đan, và đến năm 943 thì Thạch Trọng Quý trục xuất sứ Khiết Đan khỏi kinh thành Khai Phong và tịch thu tài sản của các thương nhân Khiết Đan trong thành. Trong những năm cuối của mình, Gia Luật Đức Quang tiến hành chiến dịch xâm lược Hậu Tấn, chiến dịch này phải mất đến ba năm và quân Khiết Đan phải đối mặt với nhiều trở ngại, đến cuối năm 946 thì tướng chỉ huy quân đội chống Khiết Đan của Hậu Tấn quyết định đầu hàng Gia Luật Đức Quang, quân Khiết Đan có thể tiến vào Khai Phong vào ngày 10 tháng 1 năm 947 mà không gặp kháng cự.[23]

Tranh mô tả các thợ săn người Khiết Đan, được vẽ vào thời Tống

Tháng 2, Liêu Thái Tông cải quốc hiệu thành "Đại Liêu", triều Liêu chính thức thành lập. Mặc dù Liêu Thái Tông có ý muốn trường kỳ mưu hoạch phát triển Trung Nguyên, song vì binh sĩ Khiết Đan cướp đoạt tài vật của nhân dân, không để cho các tiết độ sứ trở về nơi trấn thủ, khiến dân Trung Nguyên phản kháng. Tháng 4, Liêu Thái Tông buộc phải dẫn quân về bắc, bệnh mất tại Loan Thành ở Hà Bắc.[24]:236 Việc Liêu Thái Tông qua đời dẫn đến cuộc khủng hoảng kế vị thứ hai, một lần nữa chủ mưu là thái hậu Thuật Luật Bình và được thúc đẩy bằng cuộc xung đột giữa phong tục thế tập của người Hán và truyền thống kế vị Khiết Đan. Gia Luật Nguyễn là con trai cả của Hoàng vương Gia Luật Bội và là cháu trai của Liêu Thái Tông, xưng đế trong khi vẫn ở Hà Bắc. Gia Luật Nguyễn tháp tùng Hoàng đế trong cuộc xâm lược Hậu Tấn, và thu được danh tiếng như là một chiến binh và chỉ huy có khả năng, một người có tính cách nhã nhặn và hào hiệp. Ứng Thiên thái hậu ủng hộ em trai của Liêu Thái Tông là Gia Luật Lý Hồ. Thái hậu phái hai đội quân lần lượt đến đối mặt với Gia Luật Nguyễn, song họ đều bị đánh bại. Gia Luật Lý Hồ không được lòng giới quý tộc Khiết Đan, do vậy không thể thu được đủ sự ủng hộ để tiếp tục thách thức Gia Luật Nguyễn, và sau một hòa ước do đại thần Gia Luật Ốc Chất dàn xếp, Gia Luật Nguyễn chính thức đảm nhiệm vai trò hoàng đế, tức Liêu Thế Tông. Liêu Thế Tông nhanh chóng đày Thuật Luật thái hậu và Gia Luật Lý Hồ khỏi kinh thành, kết thúc tham vọng chính trị của họ.[25]

Liêu Thế Tông bổ nhiệm sử dụng hiền thần Gia Luật Ốc Chất, tiến hành một loạt cải cách, hợp nhất Nam diện quan và Bắc diện quan thời Liêu Thái Tông, thành lập Nam Bắc Khu mật viện, phế Nam Bắc đại vương. Về sau, Nam Bắc Khu mật viện hợp nhất thành một Khu mật viện. Cải cách của Liêu Thế Tông khiến triều Liêu chuyển từ hình thức liên minh bộ lạc sang thời đại trung ương tập quyền. Trong thời gian Liêu Thế Tông tại vị, ông vẫn giữ kỳ vọng chiếm lĩnh Trung Nguyên, nhiều lần dụng binh đối với chính quyền Trung Nguyên. Tuy nhiên, Liêu Thế Tông lại là người hiếu tửu sắc, yêu thích săn bắn. Những năm cuối, Liêu Thế Tông dùng gian nịnh thần, giảm phong thưởng, khiến triều đình không được chỉnh trị, chính trị hủ bại. Tháng chín năm 951, Liêu Thế Tông hiệp trợ Bắc Hán tấn công Hậu Chu, lúc hành quân đến Tường Cổ Sơn ở Quy Hóa (nay thuộc Hô Hòa Hạo Đặc), bộ binh Liêu vẫn chưa đến nơi, nên trước tiên ông đóng quân tại Hỏa Thần Điến (nay ở phía tây Tuyên Hóa, Trương Gia Khẩu). Trong thời gian này, ông uống rượu, đánh người, săn bắn khiến cho nhiều người bất mãn, cuối cùng bị Gia Luật Sát Cát giết chết trong lúc đang mơ màng.[4]:8

Suy thoái và ổn định

Năm 951, Gia Luật Sát Cát giết Liêu Thế Tông, đồng thời tự tiến hành xưng đế. Con cả của Liêu Thái Tông là Gia Luật Cảnh cùng với Gia Luật Ốc Chất suất quân giết chết Gia Luật Sát Cát, sau đó Gia Luật Cảnh được lập làm hoàng đế, tức Liêu Mục Tông, là hoàng đế Liêu thứ hai và cuối cùng không phải là hậu duệ trực tiếp của Gia Luật Bội. Liêu Mục Tông tuy không thích nữ sắc, song lại hay uống rượu, đến sáng mới ngủ, trưa mới tỉnh dậy, nên thường không lo triều chính, quốc nhân gọi là "thụy vương" (tức vua ngủ). Vào tiền kỳ thời Liêu Mục Tông, nội bộ triều đình không ổn định, trong lòng bất đồng, phát sinh các sự kiện làm loạn hoặc chạy đến Trung Nguyên: tháng 6 năm 952, Tiêu Mi Cổ Đắc muốn phản Liêu chạy sang Hậu Chu, việc bại lộ nên bị giết. Tháng 7, Chính sự lệnh Gia Luật Lâu Quốc và Lâm nha Gia Luật Địch Liệt âm mưu làm loạn, bị tróc nã, rồi bị xử tử. Tháng 10 năm 953, con của Gia Luật Lý Hồ là Gia Luật Uyển và những người khác mưu phản, sau khi bại lộ thì bị tróc nã. Tháng 7 năm 960, Chính sự lệnh Gia Luật Thọ Viễn và Thái bảo Sở A Bất mưu phản, việc thất bại và bị xử tử. Sang tháng 10, con của Gia Luật Lý Hồ là Gia Luật Hi Ẩn mưu phản, việc thất bại nên bị tróc nã, do khai rằng sự việc của liên hệ với Gia Luật Lý Hồ nên Gia Luật Lý Hồ bị giam vào ngục đến chết.[26]

Mặt nạ bồi táng thời Liêu

Do cục thế chính trị có nhiều biến động, Liêu Mục Tông buộc phải đình chỉ chính sách nam phạt Trung Nguyên của Thái Tông và Thế Tông, nhằm khôi phục quốc lực bị tổn hại do chiến sự trường kỳ; liên hiệp với Nam Đường, Bắc Hán đối kháng với Hậu Chu đang dần cường thịnh. Năm 959, Hậu Chu phát động Bắc phạt, Ninh châu thứ sử Vương Hồng của Liêu dâng thành đầu hàng. Quân Hậu Chu sau đó đánh chiếm Ích Luật quan, Ngõa Kiều quan, Mạc Châu, Doanh Châu thứ sử Lưu Sở Tín, Cao Ngạn Huy cũng dâng thành đầu hàng. Đương thời, Hậu Chu Thế Tông muốn nhân lúc sĩ khí đang lên mà tiến thẳng đến U Châu, Liêu Mục Tông thậm chí còn có ý định từ bỏ Yên Vân thập lục châu.[27] Cuối cùng, Hậu Chu Thế Tông bị bệnh nặng nên trở về nam, Mạc Châu và Doanh Châu trở thành lãnh thổ Hậu Chu, quân Liêu tăng cường phòng ngự, không dám nam hạ. Bản thân Liêu Mục Tông là người hiếu sát, thường tự tay giết người. Đồng thời, ông yêu thích săn bắn đến nỗi "cả tháng không lâm triều", đến tháng 2 năm 969 thì bị người hầu sát hại. Con của Liêu Thế Tông là Gia Luật Hiền được tôn làm hoàng đế, tức Liêu Cảnh Tông.[26]

Liêu Cảnh Tông cần mẫn xử lý chính sự, trọng dụng hiền thần như Chất Phưởng hay Quách Tập, triều Liêu xuất hiện một giai đoạn tươi sáng. Để giải quyết tình trạng hoàng tộc mưu phản thời Liêu Mục Tông, Liêu Cảnh Tông chọn thi hành chính sách khoan hồng hơn, do vậy số người mưu loạn ít đi, thượng tầng tương đối ổn định. Về chính sách đối ngoại, Liêu Cảnh Tông chọn chính sách không chủ động nam hạ Trung Nguyên, chỉ viện trợ cho Bắc Hán. Vào tiền kỳ thời Liêu Cảnh Tông, triều Liêu và Bắc Tống trao đổi sứ thần qua lại, chúc mừng nhau vào dịp lễ tết. Tống Thái Tông Triệu Khuông Nghĩa sau khi thống nhất Giang Nam, đến năm 979 thì thân chinh Bắc Hán, triều Liêu phái mấy vạn binh chi viện Bắc Hán. Tháng ba, quân Liêu giao chiến với quân Tống tại Bạch Mã Lĩnh, kết quả quân Liêu bị đánh bại, tướng Liêu Gia Luật Địch Liệt chiến tử. Tháng sáu, hoàng đế Bắc Hán là Lưu Kế Nguyên hàng Tống. Triều Liêu thay đổi chiến lược, đem lực lượng chủ yếu đến cố thủ U-Kế. Tống Thái Tông thừa thắng tiến công U Châu, triều Liêu phái các danh tướng Gia Luật Sa, Gia Luật Hưu Ca, Gia Luật Tà Chẩn suất quân, cùng quân Tống giao chiến tại Cao Lương Hà (nay ở bên ngoài Tây Trực Môn của Bắc Kinh), đánh bại được quân Tống, Tống Thái Tông chỉ có thể thoát thân. Do Liêu Cảnh Tông thân thể yếu đuối, nhiều bệnh, có khi không thể thượng triều, đại sự quốc gia phần lớn do Hoàng hậu Tiêu Xước hiệp trợ xử lý.[26]

Thánh Tông thịnh thế

Tranh mô tả một thị vệ Liêu, Bảo tàng Xích Phong, Nội Mông

Năm 982, Liêu Cảnh Tông bệnh mất, Liêu Thánh Tông Gia Luật Long Tự kế vị, tôn Tiêu Xước làm hoàng thái hậu, Tiêu thái hậu nhiếp chính. Đương thời, Tiêu thái hậu 30 tuổi, còn Liêu Thánh Tông 12 tuổi, vì cha của Tiêu thái hậu là Tiêu Tử Ôn bị giết vào năm 970 và không có người kế tự nên khiến cho Tiêu thái hậu không có ngoại thích để dựa vào. Các vương tông thất ủng binh, khống chế triều đình, tạo thành mối đe dọa lớn đối với Thái hậu và Hoàng đế. Tiêu thái hậu trước tiên trọng dụng đại thần Gia Luật Tà Chẩn, Hàn Đức Nhượng tham gia quyết định đại sự, quân sự ở mặt nam ủy thác cho Gia Luật Hưu Ca, thay thế một loạt đại thần, đồng thời hạ lệnh cấm chư vương thiết yến chiêu đãi lẫn nhau, yêu cầu họ không có việc thì không ra khỏi cửa, đồng thời nỗ lực giải trừ binh quyền của họ. Sau các hành động này, địa vị của Liêu Thánh Tông và Tiêu thái hậu trở nên ổn định. Tiêu thái hậu nhiếp chính trong 27 năm, có tìn đồn rằng bà từng tái giá với Hàn Đức Nhượng. Trong thời gian chấp chính, Tiêu thái hậu tiến hành cải cách, tận lực phát triển quốc gia, chú trọng trồng trọt, xây dựng công trình thủy lợi, giảm thiểu thu thuế, chính đốn việc cai trị của quan lại, huấn luyện quân đội, khiến cho bách tính triều Liêu phồn vinh, thế nước cường thịnh. Năm 1009, sau khi Liêu Thánh Tông thân chính, triều Liêu đạt đến đỉnh cao của mình, về cơ bản tiếp tục phong mạo triều Liêu thời Tiêu thái hậu chấp chính, phản đối hình pháp nghiêm khắc, phòng chống việc tham ô. Trên khía cạnh văn hóa và giáo dục, Liêu Thánh Tông cho tiến hành chế độ khoa cử, biên tu kinh Phật, Phật giáo hết sức thịnh hành. Trong thời gian tại vị, Liêu Thánh Tông tiến hành chinh chiến tứ phương, thường xuyên giành chiến thắng trước Tống, bắt được danh tướng Dương Nghiệp của Tống.[4]:9

Sau khi triều Tống lập quốc, liền có ý định thu phục Yên Vân thập lục châu, hai lần tiến hành bắc phạt vào các năm 979986, song đều bị quân Liêu đánh bại. Để giải quyết đối kháng trường kỳ giữa Liêu và Tống, Tiêu thái hậu và Liêu Thánh Tông vào năm 1004 suất đại quân thân chinh Tống. Tống Chân Tông sợ địch, muốn thiên đô về nam, song do Tể tướng Khấu Chuẩn kiên trì thuyết phục nên Hoàng đế Tống đích thân đến Thiền Châu (nay ở Bộc Dương, Hà Nam) đốc chiến. Sĩ khí quân Tống tăng mạnh, đánh bại quân tiền phong của Liêu, tướng Liêu Tiêu Thát Lẫm chiến tử. Quân Liêu lo sợ, đề xuất hòa ước. Tống Chân Tông vào năm sau cùng với Liêu lập hòa ước, quy định mỗi năm Tống phải cống cho Liêu 10 vạn lạng bạc, 20 vạn thất lụa, hai bên giữ gìn cương giới, không quấy rối lẫn nhau, trở thành hai nước huynh đệ, tức Thiền Uyên chi minh, từ đó hai triều hòa hảo suốt trong 120 năm sau. Liêu Thánh Tông cũng kết hảo với Tây Hạ, song Tây Hạ lại dao động giữa Tống và Liêu để tồn tại, hình thành cục thế chân vạc ba nước Tống-Liêu-Hạ.[24]:237

Cao Ly quy phục

Khi Gia Luật A Bảo Cơ chinh phục Bột Hải vào năm 926, hầu hết cư dân nước này bị tái định cư tại khu vực nay thuộc Liêu Ninh. Có ít nhất ba nhóm vẫn còn ở lại lãnh thổ cũ của Bột Hải, một trong số đó thành lập nên nước Định An. Mặc dù phát động hai cuộc xâm lược vào năm 975 và 985, Liêu vẫn không thể đánh bại Định An. Không thể trừ khử mối đe dọa, Liêu quyết định dựng nên ba pháo đài với quân đồn trú ở khu vực thung lũng sông Áp Lục.[28]

Tranh mô tả cảnh chuẩn bị săn bắn, khai quật trong mộ táng thời Liêu ở kỳ Ngao Hán, Nội Mông

Các hành động quân sự này diễn ra rất gần với lãnh thổ Cao Ly, cộng thêm Liêu từng dự tính xâm lược vào Cao Ly năm 947 (song hủy bỏ), cùng quan hệ ngoại giao và văn hóa bền chặt giữa Cao Ly và Tống, quan hệ Liêu-Cao Ly do vậy cực kỳ kém. Cả Liêu và Cao Ly đều nhìn nhận đối phương như một mối đe dọa quân sự; Liêu sợ rằng Cao Ly sẽ cố gắng kích động các cuộc nổi loạn trong số cư dân Bột Hải sống tại lãnh thổ Liêu, trong khi Cao Ly lo sợ bị Liêu xâm lược. Liêu xâm lược Cao Ly lần đầu vào năm 992, suất một đội quân mà các tướng lĩnh Liêu tuyên bố là có 80 vạn người, yêu cầu Cao Ly nhượng cho Liêu một số lãnh thổ quanh sông Áp Lục. Cao Ly kêu gọi đồng minh quân sự là Tống giúp đỡ, song không có sự hỗ trợ nào của Tống đối với Cao Ly. Liêu tiến quân vững chắc về phía nam, đến khu vực sông Thanh Xuyên, tại đây Liêu kêu gọi tiến hành các cuộc đàm phán giữa các lãnh đạo quân sự của hai bên. Liêu thoạt đầu yêu cầu Cao Ly đầu hàng hoàn toàn, Cao Ly Thoạt đầu cũng có vẻ như sẵn lòng tính đến chuyện này, song nhà đàm phán Cao Ly cuối cùng thuyết phục được phía Liêu chấp thuận một giải pháp mà theo đó Cao Ly trở thành nước chư hầu của Liêu.[29] Năm 994, trao đổi ngoại giao theo thường lệ giữa Liêu và Cao Ly được bắt đầu, còn mối quan hệ giữa Cao Ly và Tống không thể ấm lên.[30]

Hòa bình không kéo dài hai thập niên, đến năm 1009 thì tướng Cao Ly là Khang Triệu (康兆; Gang Jo) sát hại Cao Ly Mục Tông Vương Tụng và đưa Vương Tuân lên ngôi nhằm làm nhiếp chính cho tiểu vương. Liêu ngay lập tức phái một đội quân gồm 40 vạn người sang Cao Ly để trừng phạt Khang Triệu, tuy nhiên sau một giai đoạn đầu giành được thắng lợi quân sự và các nỗ lực đàm phán hòa bình thất bại, Liêu và Cao Ly bước vào một thập niên chiến tranh liên tục. Năm 1018, Liêu phải đối mặt với thất bại quân sự lớn nhất trong lịch sử của mình, song đến năm 1019 thì họ đã sẵn sàng tập hợp đại quân để tiến sang Cao Ly. Vào lúc này, cả hai bên đều nhận thấy rằng họ không thể đánh bại đối phương về quân sự, do vậy vào năm 1020, Cao Ly Hiển Tông tiếp tục triều cống cho Liêu, và vào năm 1022 thì Liêu chính thức công nhận tính hợp lệ của Cao Ly Hiển Tông. Cao Ly từ đó duy trì vị thế là chư hầu của Liêu, và quan hệ giữa hai bên trong trình trạng hòa bình cho đến khi Liêu diệt vong.[31]

Chân vạc ba nước

Liêu và các nước xung quanh, năm 1111:
  Liêu
  Bắc Tống
  Tây Hạ

Năm 1031, Liêu Thánh Tông qua đời, con cả Da Luật Tông Chân kế vị, tức Liêu Hưng Tông. Mẹ đẻ của Liêu Hưng Tông là Tiêu Nậu Cân (tức Pháp Thiên thái hậu) tự lập làm hoàng thái hậu mặc dù có xuất thân cung nữ, đồng thời nhiếp chính và bức tử mẹ nuôi của Liêu Hưng Tông là Tề Thiên hoàng hậu Tiêu Bồ Tát Ca. Pháp Thiên thái hậu trọng dụng những tham quan ô lại từng bị phạt vĩnh viễn không được dùng dưới thời Liêu Thánh Tông, cũng như người thân của họ. Liêu Hưng Tông không có quyền lực nên không thể ngăn cản, mẫu tử do vậy kết oán. Pháp Thiên thái hậu không tín nhiệm Liêu Hưng Tông, có ý muốn cải lập thứ tử là Da Luật Trọng Nguyên làm hoàng đế, song Da Luật Trọng Nguyên lại tố cáo việc này cho Hưng Tông. Hưng Tông tức giận không thể nín nhịn được nữa, đến năm 1034 dùng vũ lực phế Pháp Thiên thái hậu, buộc Pháp Thiên thái hậu "tự thân trông nom Khánh lăng", đại sát thân tín của Thái hậu. Tháng 7, Liêu Hưng Tông thân chính, cho xây lăng viên an táng Tề Thiên hoàng hậu. Sau đó, Hưng Tông lại đón Pháp Thiên thái hậu về một phần vì những người ủng hộ bà vẫn nắm giữ các chức vụ quan trọng, song duy trì cự ly để đề phòng bất trắc, tình mẫu tử bị rạn nứt không thể hàn gắn.[7]:74

Trong thời gian Liêu Hưng Tông tại vị, triều Liêu ngày càng suy lạc, gian nịnh thần nắm quyền trong triều, chính trị hủ bại, bách tính khốn khổ, quân đội suy nhược. Phải đối mặt với tình trạng quốc thế ngày càng suy nhược, Liêu Hưng Tông chinh chiến liên niên, nhiều lần chinh phạt Tây Hạ; bức bách triều Tống giao nạp nhiều hơn. Tuy nhiên, những hành động này ngược lại khiến cho bách tính Liêu oán giận, nhân dân không thể duy trì sinh hoạt bình thường. Liêu Hưng Tông mê tín Phật giáo, hết sức xa xỉ. Liêu Hưng Tông đối với Gia Luật Trọng Nguyên thì hết sức cảm kích, trong một lần say rượu từng hứa rằng sau khi trăm tuổi sẽ truyền vị cho Gia Luật Trọng Nguyên. Hoàng tử Gia Luật Hồng Cơ (sau là Liêu Đạo Tông) chưa từng được phong làm hoàng thái tử, chỉ được phong là Thiên hạ binh mã nguyên soái. Do vậy, sau khi Liêu Đạo Tông kế vị, phụ tử Gia Luật Trọng Nguyên cố gắng mưu đoạt đế vị.[7]:75

Sau chiến tranh Tống-Hạ, Bắc Tống trong ngoài đều khó khăn, khiến triều Liêu thừa cơ xâm lược Tống. Sau khi trưng cầu ý kiến của Trương Kiệm, Liêu Hưng Tông một mặt phái Gia Luật Trọng Nguyên và Tiêu Huệ tạo thanh thế muốn đánh Tống tại biên cảnh, một mặt phái Tiêu Đặc Mạt (tức Tiêu Anh) và Lưu Lục Phù vào tháng 1 năm 1042 đến triều Tống yêu cầu được nhượng 10 huyện ở phía nam Ngõa Kiều quan. Triều Tống phái Phú Bật đàm phán với sứ Liêu, kết quả là Trọng Hi tăng tệ. Hai bên đạt được thỏa thuận vào tháng 9, trên cơ sở Thiền Uyên chi minh, gia tăng số bạc thêm 10 vạn lạng, lụa thêm 10 vạn thất, nhằm giải quyết yêu sách về đất đai. Liêu Hưng Tông còn phái Gia Luật Nhân Tiên và Lưu Lục Phù đi sứ sang Tống một lần nữa để tranh nghị về chữ "nạp", tức Tống nạp bạc lụa cho Liêu chứ không phải là tặng. Tống Nhân Tông chấp thuận, song đưa ra điều kiện là triều Liêu cần phải buộc Tây Hạ hòa đàm với Tống. Vì vậy, sau khi quan hệ Liêu Tống hòa hảo, quan hệ Liêu-Hạ lại xấu đi, phát sinh chiến tranh. Liêu Hưng Tông hai lần thân chinh Tây Hạ, song đều chịu thất bại, song Tây Hạ cuối cùng chấp thuận xưng thần và tiến cống cho Liêu.[7]:76

Đạo Tông trung suy

Tượng Quan Âm bằng gỗ của triều Liêu

Sau khi Liêu Đạo Tông kế vị, đến tháng 7 năm 1063 thì Gia Luật Trọng Nguyên nghe theo lời của con trai mà phát động bạo loạn, tự lập làm hoàng đế, không lâu sau thì bị Liêu Đạo Tông bình định, Gia Luật Trọng Nguyên tự tử. Trong thời gian Liêu Đạo Tông tại vị, chính trị của Liêu hủ bại, quốc thế dần suy lạc. Liêu Đạo Tông không tiến hành cải cách mới, bản thân lại thoái hóa xa xỉ, đương thời địa chủ và quan lại đẩy mạnh chiếm giữ đất đai, bách tính thống khổ không kham nổi, lời oán thán khắp nơi. Liêu Đạo Tông trọng dụng các gian nịnh thần như Gia Luật Ất Tân, bản thân không lo chính sự, đồng thời tin theo sàm ngôn của Gia Luật Ất Tân rằng Tướng Tín hoàng hậu Tiêu Quan Âm và linh quan Triệu Duy Nhất thông gian, ban chết cho Hoàng hậu. Gia Luật Ất Tân phòng khi Thái tử đăng cơ sẽ bất lợi đối với bản thân, vì vậy cố gắng hãm hại Hoàng thái tử Gia Luật Tuấn, sau đó lại sát hại. Tháng 7 năm 1079, Gia Luật Ất Tân thừa cơ Liêu Đạo Tông đi săn bắn để mưu hại Hoàng tôn Gia Luật Diên Hi, Liêu Đạo Tông tiếp thu lời khuyên của đại thần, mệnh Hoàng tôn đi săn bắn cùng, hóa giải âm mưu của Gia Luật Ất Tân. Năm 1083, Liêu Đạo Tông truy phong cố thái tử là Chiêu Hoài thái tử, cải táng theo lễ thiên tử. Tháng 10 cùng năm, Gia Luật Ất Tân trù tính mang theo vũ khí do bản thân tích trữ đến Tống tị nạn, sự việc bại lộ, Gia Luật Ất Tân bị trừ khử.

Trong thời gian Liêu Đạo Tông trị vì, diễn ra một cuộc chiến tranh từ năm 1092 đến năm 1102 giữa Liêu và Trở Bốc. Người Trở Bốc sinh sống ở vùng biên giới tây bắc của Liêu và từng một vài lần giao chiến với Liêu khi Liêu cố gắng mở rộng lãnh thổ theo hướng đó. Năm 1092, Liêu tiến công một vài bộ lạc khác ở tây bắc, và đến năm 1093 thì Trở Bốc tiến công, đánh sâu vào lãnh thổ Liêu. Chiến tranh tiếp diễn cho đến năm 1100, khi Liêu bắt giữ và hành hình tù trưởng Trở Bốc là Ma Cổ Tư, và thêm hai năm nữa để đánh dẹp tàn dư Trở Bốc. Cuộc chiến chống Trở Bốc là chiến dịch quân sự thành công cuối cùng do Liêu tiến hành.[32]

Tháng 1 năm 1101, Liêu Đạo Tông qua đời, Hoàng tôn Gia Luật Diên Hi kế vị, tức Liêu Thiên Tộ. Đương thời, Tây Hạ Sùng Tông Lý Càn Thuận do bị Tống tiến đánh nên một lần nữa lại cầu viện từ Liêu, đồng thời xin cưới công chúa của Liêu làm chính thất. Liêu Thiên Tộ đến năm 1105 thăng người con gái trong hoàng tộc là Gia Luật Nam Tiên làm công chúa, gả cho Tây Hạ Sùng Tông, đồng thời phái sứ giả sang Tống, khuyên Bắc Tống hòa đàm với Tây Hạ.[4]:10

Nữ Chân uy hiếp

Ngày 10 tháng 2 năm 1112, Liêu Thiên Tộ đến Xuân Châu, triệu tập các tù trưởng Nữ Chân trong khu vực đến chầu. Trong yến tiệc, Liêu Thiên Tộ say rượu rồi lệnh cho các vị tù trưởng khiêu vũ, chỉ có Hoàn Nhan A Cốt Đả từ chối. Liêu Thiên Tộ Đế không suy nghĩ về chuyện này, song từ đó quan hệ giữa Hoàn Nhan A Cốt Đả và triều Liêu trở nên bất hòa. Tháng 9, Hoàn Nhan A Cốt Đả không còn phụng chiếu, đồng thời bắt đầu dụng binh với các bộ lạc Nữ Chân không phục tùng. Mùa xuân năm 1114, Hoàn Nhan A Cốt Đả chính thức khởi binh phản Liêu. Liêu Thiên Tộ ban đầu không xem Hoàn Nhan A Cốt Đả là một mối đe dọa nghiêm trọng, song các đội quân mà ông phái đi trấn áp Hoàn Nhan A Cốt Đả đều chiến bại. Năm 1115, để giải quyết uy hiếp từ tộc Nữ Chân, Liêu Thiên Tộ Đế hạ lệnh thân chinh, tuy nhiên quân Liêu bị quân Nữ Chân đánh bại ở khắp nơi, Hoàn Nhan A Cốt Đả cũng tự xưng là hoàng đế, kiến lập triều Kim, tức Kim Thái Tổ. Cùng năm, triều Liêu phát sinh nội loạn, Gia Luật Chương Nô nổi loạn tại Thượng Kinh của Liêu, mặc dù nhanh chóng bị bình định, song gây ra chia rẽ trong nội bộ Liêu. Sau đó, ở Đông Kinh (nguyên thuộc nước Bột Hải) cũng phát sinh sự kiện Cao Vĩnh Xương làm loạn tự lập, đến tháng 4 năm 1116 mới bị bình định. Đến tháng 5, quân Kim lợi dụng đêm tối mà đánh chiếm Đông Kinh và Thẩm Châu của Liêu. Năm 1117, quân Kim đánh Xuân châu, quân Liêu không chiến tự bại.[4]:11

Phân liệt và diệt vong

Hình thế đồ miêu tả việc Kim diệt Liêu và Bắc Tống

Năm 1120, quân Kim đánh chiếm Thượng Kinh của Liêu, tướng trấn thủ là Tiêu Thát Bất Dã đầu hàng, đến năm 1121 thì Liêu tổng cộng đã để mất một nửa lãnh thổ. Do vấn đề kế thừa hoàng vị, nội bộ Liêu lại phát sinh nội loạn, cuối cùng kết thúc với việc Liêu Thiên Tộ giết con cả của mình là Gia Luật Ngao Lỗ Oát, song chỉ khiến cho thêm nhiều binh sĩ Liêu đầu hàng triều Kim. Tháng một năm 1122, quân Kim đánh chiếm Trung Kinh của Liêu, Liêu Thiên Tộ phải lưu vong đến Giáp Sơn.[4]:12

Ở Nam Kinh của Liêu, các đại thần như Gia Luật Đại ThạchLý Xử Ôn không biết tung tích của Thiên Tộ, họ ủng hộ Gia Luật Thuần làm hoàng đế, tức Thuận Tông, gọi là triều Bắc Liêu. Thuận Tông giáng Thiên Tộ làm Tương Âm vương, đồng thời sai đại sứ dâng biểu cho triều Kim xin làm phụ dung. Tuy nhiên sự chưa thành thì ông đã bệnh mất, vợ là Liêu Đức phi xưng chế. Đến lúc này, cha con Lý Xử Ôn nhận thấy tương lai không sáng sủa, họ trù tính tư thông với Đồng Quán của Bắc Tống, muốn đoạt lấy lãnh thổ đang do Liêu Đức phi nắm giữ rồi dâng cho Tống; hướng bắc tư thông với người Kim, tự nhận làm nội ứng; về sau bị phát hiện và ban chết. Tháng mười một năm đó, Liêu Đức phi năm lần dâng biểu cho triều Kim, nói rằng chỉ cần cho phép lập Gia Luật Định làm Liêu đế thì điều kiện gì cũng đáp ứng. Người Kim không đồng ý, Liêu Đức phi chỉ còn cách phái binh tử thủ Cư Dung quan, song Cư Dung quan thất thủ vào tháng mười một, đến tháng 12 thì Nam Kinh bị quân Kim công phá. Liêu Đức phi cùng các quan viên đến nương nhờ ở chỗ Liêu Thiên Tộ, song bà bị Thiên Tộ Đế giết.[7]:118

Tháng một năm 1123, Hồi Ly Bảo (Tiêu Cán) tự lập, lấy hiệu là Hề Quốc hoàng đế, đến tháng 8 thì bị bình định. Năm 1124, Thiên Tộ Đế lúc này đã bị mất đại bộ phận lãnh thổ, ông tự mình rút ra Mạc Ngoại, con cái và gia thuộc của ông đại đa số bị giết hoặc bị bắt, mặc dù ông có ý định thu phục thủ phủ Yên Châu và Vân Châu, song trên thực tế không có nhiều hy vọng.

Ngày 26 tháng 3 năm 1125, Liêu Thiên Tộ bị tướng Kim Hoàn Nhan Lâu Thất bắt được ở Ứng Châu, sang tháng tám thì bị giải đến Thượng Kinh của Kim (nay thuộc A Thành, Hắc Long Giang), bị Kim Thái Tông Hoàn Nhan Thịnh giáng làm Hải Tân vương. Năm 1128, Thiên Tộ Đế bệnh mất, triều Liêu kéo dài tổng cộng 210 năm (bao gồm cả Khiết Đan), trải qua 9 vị đế vương.[4]:12

Lưu vong phục quốc

Phạm vi thế lực của Tây Liêu vào năm 1200

Tại Tây Bắc, Gia Luật Đại Thạch triệu tập tàn dư của triều Liêu, khống chế khu vực cao nguyên Mông Cổ và đông bộ Tân Cương. Năm 1130, do chịu áp lực từ quân Kim, Gia Luật Đại Thạch quyết định từ bỏ cao nguyên Mông Cổ, suất bộ tây chinh. Năm 1132, Gia Luật Đại Thạch xưng đế tại Diệp Mê Lập (nay thuộc Ngạch Mẫn, Tân Cương), sử gọi là Tây Liêu, thủ đô tại Hổ Tư Oát Lỗ Đóa.[7]:120 Tây Liêu từng có lúc khuếch trương đến các nước Trung Á ngày nay, trở thành cường quốc ở Trung Á. Sau khi Gia Luật Đại Thạch mất vào năm 1143, Tây Liêu lần lượt do Tiêu Tháp Bất Yên, Gia Luật Di Liệt, Gia Luật Phổ Tốc Hoàn, Gia Luật Trực Lỗ CổKhuất Xuất Luật thống trị. Cuối cùng, Tây Liêu bị quân đội Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn tiêu diệt, tồn tại được 87 năm.[4]:13

Năm 1212, tông thất triều Liêu là Gia Luật Lưu Ca tại khu vực Long An (nay là Nông An, Cát Lâm), Hàn Châu (nay là Lê Thụ, Cát Lâm khởi binh phản kháng triều Kim, đồng thời được đế quốc Mông Cổ giúp đỡ. Tháng ba năm 1212, Gia Luật Lưu Ca xưng vương, đặt quốc hiệu là Liêu, sử gọi là Đông Liêu. Gia Luật Lưu Ca sau khi kiến quốc thì quy phụ đế quốc Mông Cổ, trở thành nước phiên thuộc, đến năm 1270 thì Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt triệt phiên, Đông Liêu chính thức diệt vong. Đầu năm 1216, em của Gia Luật Lưu Ca là Gia Luật Tư Bất làm phản, xưng đế tại Trừng Châu, gọi là Hậu Liêu. Không lâu sau, Gia Luật Tư Bất bị bộ hạ sát hại, mọi người tôn Gia Luật Khất Nô làm giám quốc. Đến mùa thu cùng năm, Mộc Hoa Lê suất quân Mông Cổ đông hạ, Gia Luật Khất Nô không thể chống lại, suất 9 vạn người Khiết Đan vượt qua sông Áp Lục tiến vào lãnh thổ Cao Ly. Không lâu sau, các quý tộc Khiết Đan tự tàn sát lẫn nhau, Hậu Liêu cuối cùng diệt vong vào năm 1220.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhà Liêu http://www.britannica.com/EBchecked/topic/338833 http://images.gg-art.com/viewNews/index_b.php?news... http://id.loc.gov/authorities/subjects/sh85024064 http://www.apu.ac.jp/~yoshim/B4.pdf http://www.chiculture.net/1702/html/1702c15.html http://www.jstor.org/stable/1005570 http://www.jstor.org/stable/25066819 http://authority.ddbc.edu.tw/place/search.php?ml=%... http://authority.ddbc.edu.tw/place/search.php?ml=%... http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/...